Tác phẩm Trần_Minh_Tông

Tác phẩm của Trần Minh Tông có Minh Tông thi tập (1 quyển) nhưng nay đã mất. Một phần bị đốt theo yêu cầu của ông lúc lâm chung, một phần có lẽ bị người Minh hủy hoại trong thời Bắc thuộc 1407-1427.[65] Hiện chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thưNam Ông mộng lục. Ngoài ra, Trần Minh Tông còn có bài đề tựa tập thơ Đại hương hải ấn (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm) của Trần Nhân Tông.[3][65]

Bài thơ "Bạch Đằng Giang" của Trần Minh Tông trong đền Trần (Nam Định).

Trong sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng), các tác giả Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu nhận xét thơ của Minh Tông "đã phản ánh trung thực tư tưởng, tình cảm và tính cách của ông. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Thơ Minh Tông hùng hồn, phóng khoáng, nhưng cũng bình dị, tự nhiên, tinh tế. Nhà thơ không ngần ngại bộc bạch những tâm sự sâu kín, những lỗi lầm thời trẻ mà sau này ông mới nhận thức được".[3]

Cuốn Thơ văn Lý-Trần đã ghi lại một số thi phẩm của vua Minh Tông, như:

  • Cam Lộ tự:
Nguyên tác: 甘露寺聳翠攢蒼入望多,溪西月影轉簷斜。隔林啼鳥尤岑寂,一徑古松初墜花。Hán Việt: Cam Lộ tựTủng thúy toàn thương nhập vọng đa,Khê tây nhật ảnh chuyển thiềm tà.Cách lâm đề điểu vưu sầm tịch,Nhất kính cổ tùng sơ trụy hoa.Dịch thơ: Chùa Cam Lộ (Nam Trân)[66]Trập trùng núi biếc non xanh,Bóng chiều bên suối chênh chênh rọi thềm.Bên rừng càng quạnh tiếng chim,Thông già một lối im lìm rụng hoa.
  • Bạch Đằng giang:
Nguyên tác: 白藤江挽雲劍戟碧巑岏,海唇吞潮捲雪瀾。綴地花鈿春雨霽,撼天松籟晚霜寒。山河今古雙開眼,胡越贏輸一倚欄。江水渟涵斜日影,錯疑戰血未曾乾。Hán Việt: Bạch Đằng giangVãn vân kiếm kích bích toàn ngoan,Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.Sơn hà kim cổ song khai nhãn,Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,Thác nghi chiến huyết vị tằng can.Dịch thơ: Sông Bạch Đằng (Đào Phương Bình và Nam Trân)[67]Chạm mây gươm giáo, xanh von vót,Sóng tuyết khi đầy lại lúc vơi.Mưa tạnh hoa phô vàng mặt đất,Sương lừa thông réo tiếng vang trời.Non sông kim cổ hai lần dậy,Hồ Việt hơn thua, một thoáng thôi.Chan chứa dòng sông ngầu bóng xế,Ngỡ là máu giặc hãy còn tươi.
  • Bài thơ Xem mạch (診脈 - Chẩn mạch) do Trần Minh Tông ứng khẩu trước khi mất, để châm biếm quan thầy thuốc Trâu Canh:
Nguyên tác: 診脈診脈休論煩悶多鄒公良劑要調和。若言煩悶無休歇只恐重招煩悶加。Hán Việt: Chẩn mạchChẩn mạch hưu luân phiền muộn đa,Trâu công lương tễ yếu điều hoà.Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết,Chỉ khủng trùng chiêu phiền muộn gia.Dịch thơ: Xem mạch (Cao Huy Giu)[68]Xem mạch đừng nên nói muộn phiền,Trâu công hãy liệu thuốc cho yên.Bảo rằng phiền muộn không sao dứt,Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên.
  • Trong Thánh đăng ngữ lục và Thơ văn Lý-Trần cũng chép lại một bài kệ Minh Tông sáng tác trước khi mất, tựa Tương tịch ký Kim Sơn thiền sư (將寂寄金山禪師其二 được dịch nghĩa là Sắp mất gửi Thiền sư Kim Sơn):[69]
Nguyên tác: 將寂寄金山禪師其二蓄藥欲治病,無病安用藥。今有無米飯,無口人咬著。Hán Việt: Tương tịch ký Kim Sơn thiền sưSúc dược dục trị bệnh,Vô bệnh an dụng dược?Kim hữu vô mễ phạn,Vô khẩu ngân giáo trước.Dịch thơ: Sắp mất gửi Thiền sư Kim Sơn (Huệ Chi)[70]Tích thuốc nhằm chữa bệnh,Không bệnh, thuốc đâu cần?Như có cơm "không gạo",Cho người "không miệng" ăn.